Gió lạnh về, nhiều người thấy rất thích thú khi được ghé vào quán trà, cầm trên tay chén trà nóng để thấy mùa đông cũng ấm áp…
Mùa đông, đi trên các con phố không khó để bắt gặp những quán trà nhỏ, giản dị. Có lẽ không ở đâu nhiều quán trà như ở Hà Nội, ngay cả ở những địa phương chuyên trồng, xuất khẩu trà. Ngồi ở quán trà có thể được nghe những câu chuyện vu vơ không đầu không cuối hay là những cuộc tâm giao của những người bạn lâu ngày gặp nhau. Ở quán trà, dường như mọi người cảm thấy thoải mái hơn, yêu đời hơn, con người với con người trở nên gần gũi nhau hơn. Và việc được nhâm nhi chén trà nóng khi mùa đông đang về đã làm ấm lòng bao người yêu Hà Nội.
Hà Nội cũng nổi tiếng bởi những quán trà đã trở thành “thương hiệu”, nơi tìm đến thường xuyên của người yêu trà như “Hiên trà Trường Xuân” ở phố Ngô Tất Tố nổi tiếng với nhiều loại trà đặc biệt, “Trà Hoa” phố Bùi Thị Xuân lại thu hút bởi không gian xinh xắn, ấm áp, “Lư Trà” ở Thanh Xuân lại giản dị và gần gũi, “Cuối Ngõ” ở Cầu Giấy hay “Vô Thường” ở Hoàng Hoa Thám… cũng là nơi thường thu hút giới trẻ, đặc biệt là những người yêu nghệ thuật… Mỗi quán một phong cách, một lối uống với những vị trà khác nhau nhưng đều giữ cho mình cái thanh nhẹ của thú vui rất Hà thành ấy.
Những người yêu trà Hà Nội hôm nay, giữa bộn bề cuộc sống vẫn giữ cho mình thói quen tìm đến những quán trà quen để thưởng thức hương vị giản dị của ấm trà “mộc” hay để hít hà hương thơm đặc trưng của những loại trà hoa có một không hai ở mảnh đất này từ trà cúc, trà sen, trà mộc, trà ngâu, trà bạch ngọc hoa, trà hoa mộc, huyền sâm trà, hoàng cúc trà… Mà mỗi câu chuyện về cái cách ướp trà, thưởng trà, dường như cũng luôn là một phần không thể thiếu trong các câu chuyện kể hoài không dứt ấy. Để rồi, trong cái lạnh vội vã trên đường, không gian bên những chén trà như ngừng lại và người ta tự nhiên thấy lòng mình chùng xuống và chén trà nóng thơm sẽ mang lại cảm giác thân thuộc, cho chúng ta ngồi gần nhau hơn.
Trong nghệ thuật ướp trà này, trà mạn hảo được ưa chuộng hơn cả. Nguyên liệu là trà Tuyết Shan cổ thụ vùng mạn ngược Hà Giang, mọc tự nhiên trên những dãy núi cao 800-1.300 m, quanh năm sương phủ. Các nghệ nhân trà Hà Nội trân trọng, nâng niu từng búp trà này như một báu vật. Họ chọn lựa những búp non, những lá trà bánh tẻ rửa sạch, cho vào chõ đồ chín. Sau khi phơi khô, họ cho trà vào chum (vại), trên phủ một lớp lá chuối khô, ủ 3- 4 năm cho trà phong hoá bớt chất chát, có độ xốp như giấy bản mà vẫn lưu giữ được hương vị đặc trưng.
Khi ướp, người ta rải một lớp trà rồi một lớp gạo sen mỏng, rồi lại một lớp trà, một lớp gạo sen. Cứ thế cho đến khi hết trà. Sau cùng, phủ một lớp giấy bản. Thời gian ướp tuỳ thuộc vào độ ẩm của gạo sen nhiều hay ít, thường từ 18-24 giờ. Sau đó, đem sàng để loại bỏ những hạt gạo sen. Sàng loại xong, trà được đóng vào những chiếc túi làm bằng giấy chống ẩm để giữ lấy cả hương sen lẫn hương trà, rồi sấy cho đến khi cánh trà khô, hương sen quyện thì bỏ ra. Lại ướp một lần sen thứ hai, thứ ba, thậm chí thứ tư, thứ năm tuỳ thuộc vào sở thích của người thưởng trà đậm hay nhạt. Càng ướp nhiều lần thì hương sen càng quyện, trà càng thơm. Trung bình, mỗi cân trà ướp cần từ 1.000-1.200 bông sen. Cho nên, không phải ngẫu nhiên, mỗi 1 kg trà sen thời xưa được đổi bằng 2-3 chỉ vàng mà người sành trà vẫn nao nức lùng mua bằng được.
Với người Hà Nội, uống trà là một thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, người ta phải để vào đó nhiều công phu. Những công phu đó, dần trở thành lễ nghi. Trong ấm trà ngon, người ta thấy phảng phất một mùi thơ và một vị triết lý. Các chân trà nhân từ xưa rất chú ý đến nghệ thuật thưởng trà với nhiều loại trà cụ (dụng cụ pha trà) cần thiết để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm giống như các thiền sư. Dùng thìa gỗ múc trà cho vào ấm đất nung nhỏ, được gọi là “Ngọc diệp hồi cung”.
Có lẽ, cũng bởi những điều giản dị ấy, người Hà Nội thường bắt đầu một ngày mùa đông bên chén trà và cũng muốn khép lại một ngày mệt mỏi bên chén trà ấm áp. Đâu đấy cũng là một cách sống không phải nơi nào cũng có được.