
Bát chè xanh xứ Nghệ
Có lẽ vì chè được trồng ở nơi đất cằn sỏi đá, thời tiết khắc nghiệt. Mùa hè gió Lào bỏng rát, mùa đông giá lạnh thấu xương, nên trong mỗi thân cây dường như đã hội đủ vị chát đắng, mặn mòi đặc biệt của đất trời và mồ hôi của những người dân lam lũ.
Để có bát nước chè xanh thơm ngon, đậm đà thì phải chọn những cây chè mọc ở nơi có ánh mặt trời, không bị những tán cây lớn che khuất. Lá chè để nấu nước không được non hoặc già quá và cây chè càng mọc ở trên đồi cao thì nước càng ngon. Nước để nấu chè xanh cũng rất quan trọng.
Những giếng nước nấu chè xanh ngon có mạch trong veo ở trên vùng đất cao, xa ao hồ, ruộng đồng. Củi nấu cũng góp phần tạo nên chất lượng của ấm chè xanh. Nấu chè xanh phải đun bằng củi gỗ thì nước mới thơm ngon. Cách chế biến chè cũng là cả một “nghệ thuật”.
Chè đem về được rửa sạch, vò kỹ, cọng bẻ gãy và tước ra. Đun cho nước sôi rồi mới cho chè vào, sau đó tiếp tục đun cho nước sôi lại, đến khi có màu xanh thì nhấc xuống, múc ra uống là vừa, không được để sôi kỹ quá, nước sẽ có màu bầm tím và rất khó uống. Uống nước chè xanh ở quê tôi không chỉ là một nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, mà còn là một tập tục văn hóa truyền thống đậm tình xứ Nghệ.
Sau những giờ lao động mệt nhọc, những ngày nông nhàn hay những đêm đông lạnh giá, đặc biệt là dịp lễ, tết, những người dân quê chân chất lại ngồi bên nhau với những bát nước chè xanh ấm đượm được từng gia đình trong thôn xóm thay phiên nhau om nấu. Ấm chè xanh giản đơn nhưng là tấm lòng hiếu khách của gia chủ. Công đoạn nấu nước chè được chuẩn bị rất cẩn thận, kỹ càng. Chè phải tươi, cành nhỏ, lá dày, được đun nấu trong nồi hoặc om trong các bình giữ nhiệt để nhiệt độ luôn nóng, nước chè có màu vàng xanh sóng sánh trông rất đẹp mắt. Chè ngon là khi uống vào có vị chan chát đầu lưỡi nhưng đọng mãi vị ngọt thanh trong cuống họng và sau đó tỏa hương thơm dịu nhẹ khoan khoái tinh thần. Buổi tối là lúc bà con chòm xóm tập trung đông nhất, trước đây gia đình nào nấu được nồi nước chè ngon, hay om ấm nước chè mới liền gọi nhau sang uống nước chuyện trò. Thời hiện đại mọi người có thể mời nhau qua zalo, facebook, qua điện thoại để rồi bên bát nước chè xanh những câu chuyện về tình làng nghĩa xóm, về lao động sản xuất, về cuộc sống đời thường được tỏ bày, thấu hiểu; người ta truyền cho nhau phương thức làm ăn, kinh nghiệm sống, chia sẻ về điều hay lẽ phải, những vui buồn, động viên, nhắc nhở nhau; mọi người như xích lại gần nhau hơn bên hơi ấm của bát nước chè xanh mộc mạc.
Cách thưởng chè của người dân xứ Nghệ cũng thật đặc biệt. Nước chè ngon nhất là khi uống nóng và ăn cùng miếng kẹo cu đơ ngon ngọt đậm đà tạo nên một hương vị rất riêng không thể nào quên. Hương thơm cùng làn khói tạo nên cảm giác vừa thư thái, vừa ấm áp lắng đọng. Nếu như “rượu ngon phải có bạn hiền” thì chè xanh cũng thế, để thưởng thức bát chè ngon phải thêm người bầu bạn để cùng cảm thấu, cùng “say hương, say vị, say tình, say trong bát nước chè xanh nghĩa tình”.
Bát chè mới pha màu xanh sóng xánh
Nước chè xanh gắn bó với mỗi đời người từ thuở thiếu thời cho đến lúc về cõi vĩnh hằng. Khi xa quê, tiếng “gọi chè” luôn thổn thức trong tôi, đưa tôi về sống với kỷ niệm êm đềm của những đêm hè nóng nực, trong xóm nhỏ, những người dân quê tôi lần lượt nấu nồi nước chè to rồi mời bà con làng xóm đến uống. Chẳng ai bảo ai, thân thiết và tự nguyện, lần lượt thay nhau. Những người phụ nữ xứ Nghệ tảo tần, lam lũ đến lượt nhà mình “gọi chè” thường cố gắng chuẩn bị thật chu đáo.
Ở xứ Nghệ, mỗi phiên chợ quê đều có một góc dành cho các các gánh hàng chè xanh về tập kết buôn bán, các chị các mẹ mỗi lần đi chợ lại tranh thủ lựa chọn cho mình những bó chè ưng ý. Bó chè ngon là chè không quá già nhưng cũng không được non, lá có màu xanh đậm, cành đã có nụ thì nấu lên nước càng ngon, màu sắc càng đẹp. Có những vùng quê người dân chỉ sử dụng lá chè để nấu nước, người dân xứ Nghệ khi nấu nước chè thường bẻ cả cành thành từng khúc nhỏ, vừa lá vừa thân, vừa nụ vừa hoa, sau đó được rửa thật sạch rồi đem lên đun nấu hoặc om chè trong ấm giữ nhiệt.
Dịp tết đến xuân về, bát nước chè xanh quê nhà không chỉ dùng để đãi khách mà còn là bát nước tinh túy để dâng lên bàn thờ cúng tổ tiên. Những ngày đầu năm mới, phong tục đến nhà thăm hỏi, chúc tết nhau là một nét văn hóa đẹp và gần như không gia đình nào là không chuẩn bị một ấm chè ngon. Bát nước chè xanh vàng sánh, ấm áp tỏa hương thơm dịu nhẹ thiết đãi khách cùng với những lời chúc tốt đẹp nhất dành cho khách và gia chủ để cùng nhau đón một năm mới ấm áp nghĩa tình, dồi dào sức khỏe, nhiều thành công, may mắn và hạnh phúc.
Bát nước chè xanh giản dị vậy thôi, nhưng chứa đựng trong đó bao nghĩa tình, đó là tình làng nghĩa xóm, tình bạn, tình đồng chí, tình thông gia… nuôi dưỡng những giá trị tinh thần của biết bao thế hệ người dân xứ Nghệ. Chỉ một lối sinh hoạt thường nhật ấy mà thấm thía câu “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy, hễ là người xứ Nghệ, dẫu có đi đâu, làm gì thì chắc rằng khi nhận được một thức quà là bó chè quê hương, nâng trên tay bát nước chè xanh, người xa quê đều lâng lâng cảm xúc về nguồn cội, đó chẳng khác gì một thức uống tiếp thêm nguồn năng lượng cho những chuyến hành trình của cuộc đời.
Nhiều người Nghệ xa quê lập nghiệp ở muôn phương đã hình thành nên nhiều làng, nhiều xóm gốc Nghệ cùng sinh sống, đặc biệt ở khu vực Tây Nguyên. Dù xa quê nhiều năm, đã sinh ra vài ba thế hệ trên vùng đất mới nhưng phong tục mời nước chè xanh hàng ngày và đặc biệt là mỗi dịp tết đến xuân về đều được người dân những nơi này giữ gìn như là một phong tục, một nét văn hóa đẹp không thể thiếu. Họ cùng ngồi lại, quây quần bên bát nước chè xanh, hàn huyên với nhau về những câu chuyện đời thường, về nỗi nhớ quê hương, về tình làng nghĩa xóm… Vì vậy tình đoàn kết của những người đồng hương càng trở nên thân thiết, gần gũi nơi quê hương thứ hai của họ, và nét đẹp văn hóa này cứ vậy được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Chợ quê đầy ắp chè và nụ cười tươi
Ngày nay, nhiều vùng nông thôn đã thực sự đổi mới chuyển mình, nhà ngói mới khang trang, đường bê tông rộng mở, phong trào xây dựng nông thôn mới đã làm đổi thay bộ mặt của miền quê. Nhà cao, tường kín, vườn tược quy củ sạch đẹp nhưng nếp sinh hoạt ở thôn quê, phong tục thưởng thức chè xanh vẫn không hề mai một.
Nồi nước chè lúc ấy không chỉ thể hiện sự hiếu khách, nghĩa tình, mà còn trở thành tiêu chí để đánh giá cái đảm đang, khéo léo của gia chủ, một niềm tự hào lặng lẽ, âm thầm mà mãnh liệt bao đời nay. Trong cuộc sống hối hả, bộn bề nơi thị thành tráng lệ, thứ thức uống giản dị mang hồn vía của quê hương vẫn hiện hữu trong ký ức tôi, trong lao xao nắng gió tôi lại nghe: Để cùng hát khúc dân ca quê mình, để tôi sống giữa bao nhiêu ân tình, bao ân tình mộc mạc làng quê, trưa nắng hè, gọi nhau râm ran chè xanh…